Đó chính là xóm Đồng, tên xóm gắn với những câu thơ do một người trong xóm đặt ra mà người già, trẻ con của xóm đều thuộc lòng: “… Trải bao năm tháng hào hùng/ Ngọn đèn đỏ tắt đi cùng chiến công/ Người chăm sóc ngọn đuốc là ông/ Huỳnh Trưng xóm nhỏ - xóm Đồng năm xưa”.
Thời chống Mỹ, người ta gọi xóm Đồng là xóm Mồ Côi. Theo những người già trong làng, sở dĩ có tên gọi ấy là vì trước đây, ở giữa xóm Đồng và các vùng xung quanh có dòng sông Con chắn ngang.
Mỗi mùa mưa đến, nước sông dâng cao bàng bạc, phương tiện đi lại chủ yếu là ghe, thúng nhỏ càng khiến xóm trở nên nhỏ nhoi, cô quạnh. Vậy mà cái xóm bé nhỏ này lại là một phần máu thịt quan trọng trong địa bàn hoạt động của K20 - mật hiệu căn cứ của quận 3. Những năm chống Mỹ, xóm nhỏ có gần 30, 40 nóc nhà. Hơn một nửa trong số đó có hầm bí mật. Có nhà có đến 2, 3 hầm. Cả xóm ai ai cũng một lòng theo cách mạng.
Địch biết rõ xóm nhỏ này là cái nôi của cách mạng nên cắt cử một tiểu đội thường xuyên ra vào đây để kiểm tra, thậm chí, ngủ lại qua đêm. Để qua mắt địch và giữ chiến sĩ của ta an toàn, người trong làng đã nghĩ ra cách tắt đèn-đỏ đèn làm tín hiệu từ xa.
Tại nhà ông Huỳnh Trưng bắc một ngọn đèn trên cành cây sau nhà. Đêm nào ông thắp sáng đèn có nghĩa là cán bộ ta có thể về đây ngủ. Chỉ bằng một ngọn đèn mờ ảo, chiến sĩ của ta ở tận Điện Ngọc, Điện Dương (tỉnh Quảng Nam) cũng biết mà về.
Những đêm ông tắt đèn là dấu hiệu báo có lính Mỹ ngủ lại trong nhà. Giai thoại về việc thắp đèn còn được người làng truyền qua câu hát: “Ai đem ánh sáng diệu kỳ/ Có đèn nhỏ xí mà tỏa đi khắp vùng/ Báo tin Mỹ ráp, ngụy lùng/ Để anh giải phóng thôi đừng qua sông/ Những đêm mưa gió bão giông/ Nhắn tin vắng địch vượt dòng sông sang…”.
Mặt khác, ban đêm ta nhờ ánh đèn, ban ngày nhờ cả vào đám con nít của xóm. Dường như cùng uống chung dòng nước sông Cổ Cò, đứa nào cũng đặc biệt gan dạ. Đã bao lần chúng mặc hiểm nguy, vượt đường trường, lội sông về báo cáo tình hình địch sắp vào xóm cho bộ đội ta.
Và cả những người phụ nữ kiên trung của xóm. Trước họng súng, bánh xe tăng băng đồng phăm phăm tính san bằng xóm, đè bẹp từng ngọn cỏ thì các bà, các chị vẫn cùng nhau xếp hàng nằm ra giữa đồng để ngăn chúng không thể dấn thêm một bước.
Cái xóm nhỏ tưởng chừng như chỉ cần vài tiếng đồng hồ là xe tăng san phẳng ấy cứ tồn tại dai dẳng trước mắt quân thù. Nghe kể, không nhà nào trong xóm này không có người bị bắt bớ, tù đày, tra tấn. Thậm chí, người trong xóm còn nói vui: Ai ở xóm Đồng mà chưa từng bị tù đày hẳn là trốn giỏi hơn cả ruồi, muỗi!
Đứng giữa xóm Mồ Côi bây giờ vẫn nhìn rõ một cây cầu đúc bằng xi- măng chơ vơ giữa đồng. Người trong làng kể, xưa, biết bao lần bọn Mỹ đem xi-măng, sắt, thép về xây cầu với ý nguyện tốt đẹp: để dân xóm Đồng dễ qua lại.
Thế nhưng, cự tuyệt ý muốn đó, dân không cho làm. Dân cứ dùng cây cầu tre gập ghềnh nối xóm Mồ Côi với xóm Cát bên kia đồng để làm chậm chân những cuộc tập kích nhanh của địch. Hàng chục năm cầu tre lắt lẻo như thế, mãi những năm gần giải phóng, Mỹ mới xây được cây cầu bê-tông này. Giờ thì chẳng ai đi trên cây cầu ấy nữa. Nó tồn tại như một chứng tích của chiến tranh.
Sau ngày giải phóng, như bao xóm nhỏ khác trên toàn thành phố, xóm Đồng cũng rạo rực đổi thay. Dòng sông Con uốn lượn quanh xóm được bồi đắp, rút ngắn khoảng cách của xóm Đồng với phố xá thênh thang. Những con đường đất ngập bùn lầy mỗi mùa mưa được thay bằng đường bê-tông thẳng tắp.
Bên đồng lúa, bên ruộng rau, bên là dòng sông, và cả những vạt dừa rất đẹp, xóm nhỏ trông thật nhẹ nhõm, trong lành, đậm nét đặc trưng của làng quê du lịch sinh thái. Dẫu vậy, xóm nhỏ trông lại buồn buồn vì những gian nhà vắng vẻ, hiu quạnh, then cài, cửa đóng, thiếu vắng dấu chân người.
Lớp thanh niên lớn lên lần lượt rời làng vì không đủ kiên nhẫn như ông cha, đất ruộng cũng chẳng còn mà bám trụ. Cánh đồng rau xanh mướt ở Đa Mặn (được ghép từ 2 tên ấp Đa Phước và Nước Mặn) cũng không còn do đô thị hóa. Bà con ở xóm Đồng lớp chuyển đi nơi khác, lớp bấu víu như nhà ông Trưng thì cho người thuê đất trồng rau.
Ông lấy chừng vài trăm ngàn đồng/tháng/sào đất thuê đỡ đần cuộc sống. Bao nhiêu năm nay, dù ngoài kia, thị trường mua bán đất đai sôi động thế nào thì nhà cửa nơi xóm Mồ Côi này cũng chẳng dày lên. Dẫu đi men theo con đường K20 về đến cuối xóm, đâu đó vẫn có những ngôi nhà xây dựng kiểu biệt thự khang trang, đẹp đẽ.
Từ bậc thềm nhà ông Trưng nhìn rộng ra bên ngoài, dự án đường nối Đà Nẵng với Hội An ngang qua sông Cổ Cò đang dần nên hình, nên vóc. Ở bên này sông, thi thoảng, vào những buổi chiều buồn buồn, nhớ chuyện xưa, ông Trưng hát:
“Ai về Đa Mặn phải nhớ sang/ Con đường di tích Bắc Mỹ An nơi này/ Mối tình sâu nặng nơi đây/ Hy sinh chịu đựng công dày đức cao/ Kế thừa Nhà nước được trao/ Hỡi ai tuổi trẻ đừng có nghĩ sao đất này/ Nói đến quê ta, giặc thù phong tỏa bốn bên/ Sân bay dã chiến cũng nằm trên đất này/ Hàng rào điện tử bủa vây/ Xe tăng, đại bác đất này cũng chuyển rung/ Nêu cao khí thế anh hùng/ Đấu tranh bất khuất kiên cường, vẻ vang/ Ai về Đa Mặn nhớ sang/ Con đường di tích Bắc Mỹ An nơi này”.
Năm 2012, dự án Bảo tồn, trùng tu Khu di tích lịch sử - Làng văn hóa K20 được phê duyệt. Người dân xóm Đồng khấp khởi hy vọng xóm nhỏ sẽ trở thành điểm du lịch nổi tiếng cả nước chẳng khác nào địa đạo Củ Chi. Người ta có quyền hy vọng lắm chớ.
Vậy mà, đã 6 năm trôi qua, dự án dù đang trong giai đoạn hoàn thiện cuối cùng thì đứng giữa xóm Đồng vẫn chưa thấy một hình hài du lịch rõ nét. Con đường vào xóm tuy khang trang nhưng nhà cửa còn ngổn ngang, vườn nhà thấp gần cả mét so với nền đường.
Trong các khu vườn trước đây xanh mướt rau màu, nay ngập tràn cây dại. Tường nhiều nhà vẫn phủ rêu phong. Ngoài nhà văn hóa K20, xóm Đồng chỉ còn 2 căn nhà được gắn bảng di tích đã được đăng ký bảo vệ - làm hầm nuôi giấu cán bộ là nhà ông Trưng và nhà bà Nhiêu.
Còn lại đa số căn hầm bí mật khác chỉ còn in đậm trong ký ức, ẩn dưới vạt rau, bờ cỏ. Ông Lê Tấn Nghĩa, Chủ tịch UBND phường Khuê Mỹ chia sẻ, từ sau ngày được quy hoạch đến nay, khu căn cứ cách mạng K20 chỉ mới đón các đoàn cựu chiến binh, sinh viên, học sinh, nhiều đồng chí cán bộ cấp cao của Đảng, Chính phủ về thăm xóm nhỏ với niềm cảm phục và ghi ơn sâu sắc.
Thế nhưng, chưa có một đoàn khách thuộc công ty du lịch nào ghé thăm. Điều này cũng dễ hiểu, bởi Mồ Côi chưa có một sản phẩm du lịch nào cụ thể. Không có sản phẩm du lịch trong tay, lấy gì để thu hút khách? Sau ngày giải phóng, bà con bắt tay vào xây dựng nhà cửa, hầm được lấp hết.
Chứng tích xưa kia chỉ còn rì rào qua những câu chuyện kể. Chỉ mất 5-10 phút để tham quan hết nhà văn hóa K20 và 2 căn hầm còn nguyên vẹn kia. Địa phương dù muốn cũng chẳng làm được gì. K20 nhiều năm qua vẫn chỉ là một khu tuyên truyền đúng nghĩa.
Mỗi lần về xóm Mồ Côi, tôi thường đi cắt ngang qua những con đường quanh xóm để cảm nhận sự đổi thay. Những con đường được quy hoạch theo ô bàn cờ nối liền Mồ Côi với khu đô thị Nam Việt Á, để thấy những con đường mới, những ngôi nhà đẹp đang nên hình, đổi dạng khang trang, đẹp đẽ.
Đi trên những con đường một thời cùng người dân Mồ Côi làm nên nhiều kỳ tích, mường tượng ra những khuôn mặt hồn hậu, kiên trung của những phụ nữ, trẻ em đã không quản ngại hiểm nguy, thì thầm vào lòng đất báo tin cho cán bộ, càng thêm thương mảnh đất gian khó này.
Rồi thầm ước: giá như Mồ Côi trở thành làng du lịch, những người - trong số rất ít ỏi người còn sót lại như ông Trưng sẽ là những hướng dẫn viên không thể nào tuyệt vời hơn. Để làng Mồ Côi trở thành gạch nối giữa quá khứ và hiện tại, con cháu của làng Mồ Côi sẽ sống được trên mảnh đất ông cha đã không tiếc máu xương để gìn giữ.
Nguồn: baodanang.vn